Dữ liệu từ Khảo sát mức sống dân cư 2020 đã cho thấy một sự thật thú vị: Suốt từ năm 2010 đến nay, số lượng ô tô /100 hộ dân của Tây Nguyên luôn luôn cao hơn số điều hòa.
Nếu xem xét cụ thể từng tỉnh, thì cả 5/5 tỉnh Tây Nguyên có tỷ lệ sở hữu ô tô cao hơn điều hòa. Tại Đắk Nông, tỷ lệ hộ gia đình sở hữu ô tô còn cao gấp 2 lần tỷ lệ hộ gia đình sở hữu điều hòa và tại Lâm Đồng tỷ lệ sở hữu ô tô cao gấp 3 lần tỷ lệ sở hữu điều hòa.
Trong khi rõ ràng, Tây Nguyên không phải là vùng có thu nhập cao nếu so với các vùng kinh tế khác và nếu chỉ đứng thứ 4 về tỷ lệ sở hữu ô tô. Vậy lý do cho điểm đặc biệt này là gì?
Lý do có thể đến từ đặc thù về khí hậu.
Tây Nguyên nằm trong vùng Nhiệt đới Xavan, gồm nhiều tiểu vùng nhưng khí hậu phổ biến là nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Khí hậu ở đây được chia thành hai mùa rõ rệt :
Mùa khô: Từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, khí hậu khô và lạnh, độ ẩm thấp.
Mùa mưa: Từ tháng 5 đến tháng 10, khí hậu ẩm và dịu mát. Trong suốt mùa mưa, những cơn mưa xối xả có thể gây ra lũ quét , đường lầy lội làm khó khăn trong việc di chuyển. Trong suốt tháng 7 và đầu tháng 8 mưa dường như có thể kéo dài liên tục.
Nhiệt độ trung bình năm là 24oC trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khô nhất. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.900 mm – 2.000 mm, tập trung chủ yếu vào mùa mưa.
Do sự khác biệt về độ cao, khí hậu ở cao nguyên nên khi đạt độ cao khoảng 500m sẽ tương đối mát mẻ và có mưa, ở vị trí cao hơn như cao nguyên với độ cao 1000m là thời tiết Đà Lạt thì mát mẻ quanh năm, đặc trưng của vùng có khí hậu núi cao. Trung Tây Nguyên như thời tiết Đắk Lắk và thời tiết Đắk Nông thì có độ cao thấp hơn và nền nhiệt độ cao hơn hai tiểu vùng phía Bắc và Nam.
Báo cáo Khảo sát mức sống dân cư 2020 cũng chỉ ra rằng, các hộ gia đình trong ngành dịch vụ khác có số ô tô tính trên 100 hộ cao nhất trong số các nhóm ngành. Cứ 100 hộ trong ngành này thì có 9,9 chiếc ô tô. Ngược lại, các hộ nông nghiệp có số ô tô trên 100 hộ thấp nhất. 100 hộ làm nông nghiệp mới có 1 chiếc ô tô duy nhất.
Mặt khác, vào năm 2010, cứ 1.000 hộ trong nhóm giàu nhất có 45 ô tô thì đến năm 2020 đã tăng lên 127 ô tô – con số này cao gấp hơn 25 lần so với nhóm nghèo nhất (chỉ 5 chiếc ô tô trên mỗi 1.000 dân). Và đồng nghĩa với việc phải 200 hộ trong nhóm nghèo nhất mới có 1 chiếc ô tô duy nhất.
Theo dữ liệu từ Cổng thông tin Cục Đăng kiểm Việt Nam, tính đến tháng 11/2021, tổng số ô tô đang lưu hành tại Việt Nam là 4,512 triệu chiếc. Như vậy, số xe hơi trên 1.000 dân Việt Nam là khoảng 46. Con số này được tính dựa trên toàn bộ số xe đăng ký, không phải số xe sở hữu cá nhân.
Việt Nam hiện đang là thị trường ô tô có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực Đông Nam Á. Theo Nikkei Asia, trong năm 2021, Việt Nam lần đầu chứng kiến doanh số bán xe hơi tăng cao trong 2 năm trở lại với 300.000 xe, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2021, Việt Nam tiếp tục vươn lên vị trí thứ 4 trong nhóm doanh số bán xe mới trong khu vực, vị trí này trước đó đã được Philippines giữ khá lâu.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, năm 2021, nhập khẩu ô tô đạt 160.035 chiếc, với trị giá 3,7 tỷ USD, tăng 52,1% về số lượng và 55,7% về trị giá so với năm 2020. Số lượng nhập khẩu trung bình 13.336 xe mỗi tháng.
Việt Nam nhập khẩu ô tô chủ yếu từ 3 thị trường là Thái Lan, Indonesia và Trung Quốc. Ba thị trường này chiếm 92,4% thị phần nhập khẩu ô tô của cả nước. So với năm 2020, nhập khẩu ô tô từ Trung Quốc tăng mạnh, hơn 206,6% và Thái Lan tăng 53,6%.
Về giá trị, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ Thái Lan trong năm 2021 đạt 1,509 tỷ USD, tăng 40,7% so với năm 2020. Từ Trung Quốc là 873,1 triệu USD, tăng 216,8%. Từ Indonesia đạt 559,5 triệu USD, tăng 27,5%. Từ Nhật Bản là 150 triệu USD, tăng 36,3% so với năm 2020. Từ Hàn Quốc là 106 triệu USD, tăng 42% và từ EU là 85 triệu USD, tăng 52,2%.
https://cafef.vn/mot-vung-tu-cach-day-hon-chuc-nam-da-co-nhieu-o-to-hon-ca-dieu-hoa-2022062107234642.chn
Nguồn : Source link